VIỄN CẢM

 

 

I. Tổng Quát.
Hiện tượng viễn cảm (telepathy – ta quen gọi là thần giao cách cảm) có được nhờ hai yếu tố.Thứ nhất là môi trường là chất ether, và thứ hai phương tiện sử dụng là thể sinh lực (vital body, etheric body, thể phách).
Ether là chất có ở khắp nơi mà cũng là cấu tạo của thể sinh lực, chính sự tràn lan cùng khắp này làm cho việc truyền cảm xúc, tư tưởng có thể có được từ người này sang người kia. Đây là tính toàn hiện (Omnipresence) của Thượng đế (tức Sự Sống) mà nhân gian hay nói đến, tính này có căn bản nằm trong chất ether trong vũ trụ. Chữ ether là chữ nói chung về biển năng lực gồm nhiều loại khác nhau mà có liên hệ, tạo thành một thể năng lực tổng hợp của trái đất.
Tính toàn hiện là luật trong thiên nhiên, và nhờ vậy mà tính toàn tri (Omniscience) mới có thể có.Để giải thích thì Thiên cơ là ý chí của vì Hành tinh Thượng đế, là hình tư tưởng biểu lộ Mục đích của ngài.Mọi hình thể của sự sống chịu sự quản trị của tư tưởng thiêng liêng qua các thể của mình mà không ý thức, chỉ người tiến xa mới dần cảm biết ý Trời điều khiển cuộc tiến hóa.Khi sự cảm biết này được vun trồng thì sự toàn thông lớn mạnh dần. Ấy là trọn câu chuyện về tính viễn cảm theo đúng nghĩa nhất.
Về thể sinh lực, nhìn lại thì ta thấy ai học về huyền bí học gần như không chú ý đến nó, mà nói chung họ để tâm nhiều đến thể xác và thể tình cảm hơn. Nay điều cần xác nhận là có thể sinh lực và cần có hiểu biết về những năng lực truyền qua thể này. Mặt khác, khoa học gián tiếp nhìn nhận sự hiệndiện của thể qua những cách trị liệu dùng điện là một hình thức năng lực, cùng nhìn nhận rằng con người có điện tính, đường thần kinh truyền đi bằng điện, và ngay cả tế bào, hạt nguyên tử là vật linh hoạt đầy tính điện.
Sẵn đây ta cũng nói cho rõ một điều làm rối trí nhiều thế hệ đọc sách của HPB.Bà dùng chữ ‘astral – tình cảm, trung giới’ để nói về thể tình cảm (astral body) lẫn thể sinh lực (vital body, etheric body).HPB ý thức rằng thể sinh lực là biểu hiện cho năng lực chính chi phối con người vào bất cứ lúc nào; vào lúc này cho đại đa số người thể sinh lực là dụng cụ cho năng lực tình cảm.Khối đông người hiện nay vẫn còn mang bản tính giống dân thứ tư Atlantis, nặng phần tình cảm.HPB biết rằng thể tình cảm sẽ tiếp tục chi phối phản ứng nơi khối đông người, và cách biểu lộ của họ trong đời sống hằng ngày, cho khoảng ba trăm năm nữa. Thành ra làm như có sự lẫn lộn giữa hai thể trong cách viết của bà.

HPB dùng như vậy vì theo bà - là một đạo đồ cao cấp, đại đệ tử - thể tình cảm rồi sẽ mất dạng trong thời gian về sau (xin đọc lại một bài trước về cõi Devachan, khi ta nói cõi tình cảm không hiện hữu đối với ai tiến cao, hàm ý họ đã thăng hoa thể tình cảm), đặc biệt đối với bà nó không có nữa do mức tiến hóa của bà.
Nay ta ghi lại ý căn bản sau áp dụng cho mọi suy nghĩ về thể sinh lực:
Thể sinh lực có cấu tạo chính yếu là năng lực chủ mà con người hay một nhóm, một quốc gia, hay thế giới phản ứng lại trong bất cứ giai đoạn nào.
Nó hàm ý hiện nay năng lực tình cảm làm chủ thể sinh lực và đại đa số người trong thế giới phản ứng theo tình cảm, và viễn cảm truyền đi cùng nhận được qua huyệt đan điền; nhưng mai sau khi tiến hóa hơn và phát triển trí năng nhiều hơn, năng lực trí tuệ sẽ là năng lực chính sử dụng thể sinh lực, ta có viễn cảm theo trí năng và những huyệt cao hơn can dự vào.
Đề tài năng lực do đó vô cùng quan trọng vì nó ấn định cõi mà ta cần sinh hoạt, và phương pháp ta dùng để làm việc trong môi trường, hoàn cảnh và các mối liên hệ. Nếu ý thức điều này, nó sẽ cho phép ta hiểu rằng ta cần thay đổi mức tỉnh thức, quyết định năng lực nào sẽ làm chủ sự thể hiện hằng ngày của mình. Và khi thái độ, sự hiểu biết của ta đạt tới mức cao hơn, thể sinh lực sẽ liên tục thay đổi, đáp ứng lại với những năng lực mới hơn do ta chủ ý mang vào.
Bên trong thể xác, màng lưới của thể sinh lực phân chia thấm nhuần khắp như hệ thống dây thần kinh của cơ thể lan đi khắp nơi.  Đó là hàng triệu đường lực li ti mà sách vở gọi là kinh mạch hay ‘nadis’, những kinh mạch này mang năng lực với chính chúng cũng là năng lực, chuyên chở tính chất của năng lực ở cõi mà lúc đó họ trụ vào. Nó có thể là cõi tình cảm hay cõi của chân nhân, và ta nên nhớ rằng không một năng lực nào có thể điều khiển được thể xác từ bất cứ cõi nào, bất kể cao ra sao, ngoài cách vừa kể tức phải qua trung gian thể sinh lực.
Như vậy, tùy theo sự chú tâm, mức thức tỉnh, ước nguyện mạnh mẽ ra sao, và mức tiến hóa mà ta có loại năng lực truyền đi trong kinh mạch đi tới dây thần kinh. Lượng và loại năng lực điều khiển hệ thần kinh phát xuất từ huyệt đạo trong vùng đó.Huyệt là nơi phân phối lực cho dây thần kinh. Năng lực tuôn vào thể sinh lực sẽ tự động sinh ra các huyệt, đây là các tụ điểm của năng lực mà con người tinh thần phải học cách dùng, và qua đó hướng dẫn năng lực đi theo cách họ muốn.
Trong thể có bẩy huyệt lớn mà theo với thời gian, chúng tác động lên thể xác làm tụ lại vật chất đậm đặc ở đó, và từ từ bẩy tuyến nội tiết thành hình và linh hoạt. Ta có hai giai đoạn lịch sử:
1. Tuyến nội tiết dần dần cho ảnh hưởng rõ rệt lên dòng máu, năng lực làm việc theo cách này trong một thời gian rất lâu và hiện tại vẫn còn. Sức sống của năng lực, qua huyệt đạo và tuyến nội tiết, làm máu linh hoạt.
2. Khi con người phát triển và tâm thức mở rộng dần, ảnh hưởng các huyệt lan rộng theo đường kinh mạch, do đó tác động lên hệ thần kinh. Hệ quả là con người biết sắp xếp sinh hoạt có chủ ý nơi cõi trần, tương ứng với mức tiến hóa của họ.
Vậy thì năng lực từ những huyệt trong thể sinh lực:
– Qua các tuyến nội tiết đến máu, và
– Theo kinh mạch đến hệ thần kinh
trở thành phương tiện chuyên chở hai loại tính chất, một là dục vọng và hạ trí (kama-manas) nơi ai ở mức thấp, và một là ý chí và bồ đề tâm (atma-buddhi) nơi ai đã tiến xa. Nó có nghĩa mọi người đều có cơ hội là thay đổi tính chất của lực và tiến lên, vì Luật Tiến Hóa quản trị mọi việc và điều gì đúng cho đại thiên địa thì cũng đúng cho tiểu thiên địa.

II.  Chi Tiết.
Ta hãy xem các loại viễn cảm khác nhau.

1. Viễn cảm theo bản năng.
Người chưa phát triển và ai chưa biết suy nghĩ, chưa dùng trí năng, có thể và thỉnh thoảng có viễn cảm, nhưng họ sử dụng nó qua huyệt đan điền (solar plexus – tùng thái dương), nơi loài vật huyệt này đóng vai trò não bộ của bản năng.Loại viễn cảm này là tính chất rõ rệt của việc thân thể con người có thú tính, và là hình ảnh xác thực nhất về viễn cảm giữa mẹ và con. Đường liên lạc vì vậy là giữa hai huyệt đan điền, là năng lực đến từ thể sinh lực này tác động lên thể kia. Môi trường cho năng lực truyền đi là chất ether của thể mà cũng là một với ether của trái đất. Cách đáp ứng theo bản năng khi có tác động của ether là cách liên lạc thời Lemuria, thay cho tư tưởng và ngôn ngữ là hai điều chưa phát triển nhiều lúc ấy. Nó liên quan chính yếu đến hai loại ấn tượng, là bản năng sinh tồn và truyền giống.Trong mỗi trường hợp cách này đều có liên hệ đến tình cảm.
Đây là loại viễn cảm hay thấy nhất trong buổi cầu hồn. Huyệt đan điền cũng là chỗ mà qua đó người đồng làm việc, nhận ấn tượng và liên lạc từ thực thể nơi cõi trung giới, hay từ các vỏ và hình thể nơi đây do con người tạo ra. Khi đó, người đồng mê man tạo nên đường liên lạc với khách hiện diện.Những mối cảm xúc, lo lắng, buồn rầu và ước muốn của người sau trở thành hiển hiện và thành một phần của lời tiên đoán mà người đồng thốt ra.Cả khách và người đồng hoạt động từ cùng loại huyệt đạo. Với người đồng như vậy và buổi cầu hồn theo cách ấy, ai có óc thông minh cao độ và thiên về trí năng sẽ không học được gì, và có thể không nhận được tin nhắn nào trừ phi có bịa đặt.
Do vậy, hình thức viễn cảm này có hai loại, và luôn luôn dùng huyệt đan điền.
– Nó là từ huyệt này sang huyệt kia giữa hai người bình thường, bị dục vọng chi phối và trụ chính yếu trong thể xác và thể tình cảm.
– Nó là giữa người trụ ở huyệt đan điền và người khác cao hơn, có huyệt đan điền hoạt động tích cực mà huyệt cổ họng cũng linh hoạt. Người sau tiếp nhận làn sóng đến với mình ở hai huyệt vừa nói, nếu tư tưởng mà người trước cảm biết và phát ra có phần nào năng lực hay chất liệu trí năng.Cảm xúc thuần túy và năng lực phát ra thuần tình cảm giữa hai người thì chỉ dùng huyệt đan điền mà thôi.
Về sau khi con người tiến hóa hơn, phát ra cảm xúc thanh cao, thánh thiện, ước nguyện, tình thương, sự liên lạc sẽ truyền từ huyệt tim này sang huyệt tim kia. Chữ ‘tâm sự - heart to heart talk’ mà xã hội thường dùng muốn nói bầy tỏ nỗi lòng, tâm can (huyệt tim) mình với (huyệt tim) người khác, thì không đúng ở đây nhưng ngày kia sẽ đúng. Vào lúc này nó thường là bầy tỏ huyệt đan điền với nhau !
Một hình thức cao hơn của loại viễn cảm theo bản năng là câu ta hay nói.
– Tôi cảm thấy là ...
Chúng có ý thiên về tình cảm nhiều hơn, dùng chất liệu tình cảm và sử dụng vùng huyệt đan điền như là chỗ nhậy cảm để gây ấn tượng.Trong trường hợp này ta có sự nhậy cảm ở cõi trung giới, và loại viễn cảm ấy là cách liên lạc thời Atlantis. Người thời này vẫn chưa thể suy nghĩ như ta hiểu suy nghĩ lúc này, huyệt đan điền của họ tác động như nam châm thu hút lấy cảm giác gửi đến họ. Đây là cách bà mẹ ‘cảm thấy’ con bị hiểm nguy đe dọa, hay có việc gì xẩy ra liên can đến con mình. Vì vậy đôi khi bà có thể gửi ý khuyến cáo rõ ràng, nhờ tình thương do bản năng.
Nói chung cách này liên kết chặt chẽ với cảm xúc và không có hay có rất ít tư tưởng can dự; nó liên hệ với tình cảm như sợ, ghét, thương, ham muốn và những phản ứng thuần tình cảm. Tâm lý quần chúng ít suy nghĩ và mù quáng, là phản ứng của khối đông với ấn tượng mà nhóm này phát ra và nhóm kia nhận được, từ cùng huyệt đan điền. Chữ viết và lời nói tự chúng không đủ để cho ra ý kiến, quan điểm ngày nay như ta có.Còn ngày xưa, việc truyền thông tin chính xác, mau lẹ giữa người bán khai với nhau là hình thức viễn cảm dùng thể sinh lực và chất prana luân lưu.

2. Viễn cảm theo trí năng.
Nay sang giống dân thứ năm Aryan, khả năng viễn cảm theo bản năng vẫn là cách mà đa số dùng, vẫn còn hết sức linh hoạt nhưng cùng lúc viễn cảm theo trí năng ngày càng trở nên chính yếu dần, truyền từ cái trí này sang cái trí kia, và đây là hình thức cao nhất hiện nay. Tình trạng hiện giờ là hai loại cùng hiện diện với viễn cảm theo trí năng đang khởi đầu rất hiếm, chỉ thấy nơi thành phần có học thức, còn với đa số quần chúng thì viễn cảm theo bản năng vẫn là cách để liên lạc.
Viễn cảm theo trí năng sử dụng huyệt cổ họng, đôi khi có một chút hoạt động của huyệt tim và luôn luôn có phản ứng phần nào của huyệt đan điền. Thường khi người gửi phóng ra ý từ huyệt cổ họng, và người nhận sẽ vẫn dùng huyệt đan điền để nhận, đây là cách hay thấy nhất. Huyệt cổ họng là huyệt tốt nhất cho mọi điều có tính sáng tạo, dầu vậy cả hai huyệt cổ họng và huyệt tim chót hết phải hòa với nhau.
Cách truyền này đang khởi sự có, do vậy người ta không biết ấn tượng nhận được trong trí là từ đâu tới; sự việc làm cuộc sống thêm phức tạp và tăng vấn đề về tâm thần mà hàng ngàn người có. Dư luận là phản ứng có tính trí năng mơ hồ của khối đông người, bắt đầu lần mò nơi cõi trí đối với hoạt động của những cái trí linh hoạt hơn và mạnh mẽ hơn.
Huyệt cổ họng can dự đến việc làm có tính sáng tạo nên liên quan đến nghệ thuật. Các hình thức nghệ thuật mới hay đặc biệt mà có người thích và có người không ưa thì phần lớn là tạo ra từ huyệt đan điền, do đó không có tính chất cao, và trong số chỉ rất ít là có huyệt cổ họng can dự vào.
Chỉ những ai thiên về trí năng mới dùng cách đó; tình cảm, cảm xúc và ước ao mạnh mẽ càng được loại trừ chừng nào thì việc truyền tư tưởng càng được chính xác chừng ấy.Trong mọi loại công việc như thế, nỗi mong ước mạnh mẽ muốn thành công trong việc truyền tư tưởng, và lòng lo sợ thất bại là cách chắc chắn nhất làm hư nỗ lực có thể cho kết quả.
Do vậy cách tốt nhất là có thái độ không ràng buộc hay tánh buông bỏ và tinh thần chẳng màng (don’t care). Kế tiếp, ai tìm hiểu về điều này cần ý thức về các loại lực, họ cần biết rằng tình cảm và lòng ao ước bất cứ điều chi về phía người nhận, sẽ tạo nên các luồng năng lực đẩy lui năng lực khác muốn tiếp xúc, thí dụ như tư tưởng của ai hướng đến họ. Khi các luồng trước đủ mạnh, chúng tác động như là cái boomerang và quay trở lại nơi phát xuất, bị thu hút về đó do sức mạnh của làn rung động đã phát chúng ra, và bởi thế ngăn chặn có viễn cảm.
3. Viễn cảm theo trực giác là từ linh hồn này sang linh hồn kia, tâm truyền tâm. Đây là hình thức viễn cảm cao nhất có được cho con người, và là hình thức liên lạc cho ra tất cả những sách vở gợi hứng có năng lực thật sự, kinh điển trong các tôn giáo, lời sáng suốt, diễn giả đầy hứng khởi, và ngôn ngữ bằng biểu tượng. Việc chỉ có thể xẩy ra khi ta có người mà các thể liên hợp, và cùng lúc có khả năng trụ vào tâm thức của linh hồn.Khi được vậy, cái trí và não bộ hòa hợp với nhau trọn vẹn vào lúc ấy.
Viễn cảm này là một trong những phát triển trên đường Đạo, là kết quả của sự tham thiền.Nó liên quan đến hai huyệt cao nơi đầu và huyệt cổ họng. Một huyệt nhận ấn tượng từ các nguồn cao, huyệt kia nhận ấn tượng đầy lý tưởng nhờ trực giác; các ấn tượng này dùng huyệt cổ họng sinh ra tư tưởng thể hiện ý cảm biết được.
Đây là sự thăng hoa của ‘cảm xúc’ do huyệt đan điền ghi nhận ở chặng trước đây của thang tiến hóa, và chỉ liên quan đến ấn tượng về nhóm, nói khác đi tính cá nhân không còn. Thí dụ tiêu biểu là đức Chúa (đức Di Lặc).Kinh thánh ghi ‘Ngài đau buồn và khổ não’, nhưng trạng thái này không hề có tính cá nhân mà nó muốn nói sự ý thức nỗi đau buồn của thế giới, cùng gánh nặng khổ não mà nhân loại đang gánh chịu.Câu ‘Chia sẻ sự thương khó của Chúa’ là muốn nói đến phản ứng của ai đã mở lòng đối với tình trạng trên thế giới.
Ta vừa nói về việc truyền tư tưởng hay viễn cảm giữa hai cá nhân với nhau, mà chuyện cũng có thể xẩy ra giữa nhiều người, từ nhóm này sang nhóm kia. Hình thức thấp nhất là viễn cảm theo bản năng, thấy nơi một đàn chim bay đổi hướng cùng một lượt, hay đàn cá cùng quẫy đuôi ngoắt sang hướng khác. Khả năng viễn cảm nơi loài vật còn biểu lộ qua việc một đoàn thú di chuyển theo cách lạ lùng tới điểm này hay kia, hay là việc truyền thông tin giữa các bộ lạc bán khai, và ai ít thông minh. Tất cả là những thí dụ cho sự biểu lộ thấp bên ngoài một thực tại tinh thần bên trong.
Giai đoạn trung cấp của sinh hoạt này, dựa phần lớn vào phản ứng của huyệt đan điền, có thể thấy qua tâm lý quần chúng đương thời và dư luận. Ta biết chúng nặng tình cảm, không thông minh, hay thay đổi.
Vậy tóm tắt lại, ta có:
– Viễn cảm theo bản năng, dùng huyệt đan điền.
– Viễn cảm có tính trí tuệ, dùng hai huyệt cao là cổ họng và ajna giữa hai chân mày.
– Viễn cảm dùng trực giác, liên hệ đến huyệt đầu.

Ta vừa trình bầy cơ chế của các loại viễn cảm, nay ta sẽ nói về vài điểm quan trọng liên quan đến người trong nhóm với nhau.
● Người ta dùng tình thương để thu hút chất liệu khoác cho ý tưởng, tư tưởng hay ý niệm muốn truyền đi. Cả người phát lẫn người nhận dùng cùng một chất, nhưng người truyền dùng năng lực tình thương của khối lớn hơn, còn người nhận dùng năng lực tình thương của chính mình khi hướng đến người truyền. Ấy là lý do tại sao có huấn thị là người trong nhóm cần thương yêu nhau và có tánh không chỉ trích (xin bạn đọc lại bài viết của HPB về việc làm đệ tử). Tình thương (không phải cảm xúc) là chìa khóa cho việc truyền và nhận viễn cảm thành công.Tình thương này nên được biểu lộ bằng đủ mọi cách có được, nơi cõi trần, nơi cõi tình cảm và qua tư tưởng đúng đắn.
Ra ngoài đề một chút thì tình thương có phải là tình cảm ? Nói cho sát thì không. Người ở mức phát triển cao và đã phát triển bồ đề tâm, có óc thuần lý, đây là quan năng mà khi biểu lộ được cho tên sai lầm là ‘tình thương’.Tên ấy nhấn mạnh tính cảm xúc, tình cảm, hoàn toàn có tính chất của cõi trung giới. Khi hiểu kỹ ta sẽ thấy óc thuần lý là tính chất cao tột của các đấng Cao Cả, luôn thể hiện bằng hành động chính đáng  và liên hệ chính đáng giữa người với người; điều ấy sẽ thể hiện cho thấy tình thương là sao trong thực tại. Tình thương thuần khiết là một tính chất hay ảnh hưởng của óc thuần lý.
● Điểm khác là ta cần chú ý đến đề tài năng lực nhiều hơn, vì nó kiểm soát và làm ta thành như ta là vào mỗi phút giây; nó cũng ấn định cõi mà ta sinh hoạt theo nghĩa dùng năng lực tình cảm là sinh hoạt nơi cõi tình cảm, và dùng năng lực trí tuệ là sinh hoạt nơi cõi này. Khi ý thức như vậy, ta sẽ có thể nhận thức rằng mình phải đổi trọn hướng chú ý từ cõi trần hay cõi tình cảm để thức tỉnh nơi cảnh ether, tức ý thức ta sử dụng năng lực nào hay năng lực nào truyền qua người
● Chót hết, sự sống tuôn tràn trong các thể của con người là sự Sống chung trong khắp thế giới, vì vậy không hề có căn bản cho sự chia rẽ, phân cách nào. Bất cứ ý gì về óc phân rẽ chỉ là do vô minh, và do sự kiện là một số năng lực chưa gây ấn tượng đủ trên tâm thức người trong không gian và thời gian, và cảm giác phân cách chỉ giản dị là ảo ảnh to lớn.
Mỗi hình thể, sinh vật liên hệ với nhau thật sát qua thể sinh lực của địa cầu mà thể sinh lực của mỗi vật là một phần trong đó. Mỗi người, mỗi vật cùng chia sẻ với ta sự sống bao la đang luân chuyển, tuôn vào và đi ra khỏi mỗi hình thái trong thiên nhiên. Sự khác biệt duy nhất có là về tâm thức, nhất là trong tâm thức của ai theo tà đạo. Sự thực là chỉ có Một Sự Sống tuôn chẩy qua trọn khối hình thể trên địa cầu.
Tất cả hình thể đều liên hệ với nhau và tùy thuộc vào nhau, thể sinh lực của địa cầu giữ chúng lại với nhau thành một tổng thể liền lạc, kết hợp, biểu lộ dưới mắt người, hay là một tâm thức vĩ đại đang khai mở dưới mắt sâu sắc của Thiên đoàn. Có cái sáng chói và có cái mờ nhạt; có cái chuyển động mau lẹ, cái khác lừ đừ và tương tác chậm lụt; có cái đi hướng này và có cái đi hướng kia, nhưng tất cả lúc nào cũng chuyển động, luân lưu không ngớt.
Khả năng có viễn cảm chỉ là một giai đoạn dẫn tới sự phát triển kế nơi con người là trực giác, hay tâm thức của linh hồn; cũng như nền văn minh tương lai là văn minh trực giác sẽ thành đạt huy hoàng trong thời Bảo Bình (Aquarius). Vun trồng sự nhậy bén về viễn cảm là một trong những cách hữu hiệu nhất để phát triển trực giác, xin bạn đọc thêm bài về trực giác trong số này.
Người có khả năng viễn cảm chân thực là người đáp ứng với ấn tượng đến từ mọi sinh linh trong ba cõi, mà cũng đáp ứng y vậy với ấn tượng đến từ thế giới của linh hồn và của trực giác. Đó là sự phát triển bản năng về viễn cảm mà chót hết nó khiến con người làm chủ trong ba cõi. Đây là tiến trình tạo hình tư tưởng, làm cho con người quen với việc nhận hay phát ra viễn cảm, và nó là hạt giống của việc đạt tới quả vị Chân Sư.

Việc tìm hiểu về cơ chế của viễn cảm, cấu tạo của thể sinh lực là điều cần thiết, bởi viễn cảm theo trí năng là khả năng sẽ đến trong tương lai cho con người, là cách ta liên lạc với nhau về sau. Kế đó, khoa học sẽ ngày càng tìm hiểu nhiều hơn về thể sinh lực, hai dấu hiệu thấy rõ cho việc ấy lúc này là cách chữa bệnh bằng mầu và quan tâm mạnh mẽ về dinh dưỡng, sức khỏe thân xác.Bởi năng lực là đề tài lớn nên ta sẽ trở lại vào những bài sau.

Tham khảo:
Telepathy and the Etheric Vehicle, A.A. Bailey.

 

Geese